Chính sách ngăn chặn Chiến_tranh_Lạnh_(1947-1953)

Giai đoạn ngay sau năm 1945 là thời kỳ đỉnh cao lịch sử về tính phổ biến của tư tưởng cộng sản. Những gánh nặng mà Hồng quânLiên bang Xô viết phải gánh chịu đã khiến họ có được sự tôn trọng rộng rãi, và nó đã được Joseph Stalin khai thác triệt để như một cơ hội để dẫn tới một châu Âu cộng sản. Các đảng cộng sản được đa số nhân dân ủng hộ tại các quốc gia như Trung Quốc, Hy Lạp, Iran, và Cộng hoà Mahabad. Các đảng cộng sản cũng đã lên nắm quyền lực tại România, Bulgaria, Albania, và Yugoslavia. Anh QuốcHoa Kỳ lo ngại rằng những thắng lợi bầu cử của các đảng cộng sản tại các quốc gia đó có thể dẫn tới những thay đổi về kinh tế và chính trị to lớn ở Tây Âu.

Kế hoạch Morgenthau và Kế hoạch Marshall

Sau khi đã mất 27 triệu người trong cuộc chiến, Liên xô quyết tâm tiêu diệt khả năng của Đức trong một cuộc chiến có thể xảy ra khác, và đã yêu cầu điều đó trong những cuộc hội nghị thời chiến. Kết quả là kế hoạch Morgenthau dự tính biến Đức thành một quốc gia nông nghiệp và không có ngành công nghiệp nặng. Bởi sự gia tăng chi phí nhập khẩu thực phẩm để tránh một nạn đói trên diện rộng ở Đức, và sự lo ngại trước nguy cơ mất toàn bộ nước này vào tay cộng sản, chính phủ Hoa Kỳ đã từ bỏ kế hoạch Morgenthau vào tháng 9 năm 1946 với bài phát biểu Trình bày lại về chính sách với Đức của Ngoại trưởng James F. Byrnes.[25]

Tháng 1 năm 1947, Truman chỉ định tướng George Marshall làm Ngoại trưởng, và ban hành JCS 1779, trong đó nói rằng một châu Âu già cả và thịnh vượng cần tới những đóng góp kinh tế của một nhà nước Đức ổn định và có khả năng sản xuất cao."[26] Nghị định này phù hợp với quan điểm của Tướng Lucius D. ClayĐồng tham mưu trưởng về sự gia tăng ảnh hưởng của chủ nghĩa cộng sản tại Đức, cũng như sự thất bại của khả năng hồi phục kinh tế của cả châu Âu nếu không có sơ sở công nghiệp của Đức mà họ từng phụ thuộc trước đó. Các quan chức chính phủ đã gặp gỡ với Bộ trưởng ngoại giao Liên xô Vyacheslav Molotov và những người khác để nhấn mạnh về một nước Đức có khả năng tư cung tự cấp về kinh tế, gồm cả một miêu tả chi tiết về các nhà máy công nghiệp, hàng hoá và cơ sở hạ tầng đã bị người Liên xô lấy đi.[27] Sau sáu tuần đàm phán, Molotov từ chối các yêu cầu và những cuộc đàm phán bị hoãn lại.[27] Marshall đặc biệt thất vọng sau cuộc gặp gỡ cá nhân với Stalin, người không quan tâm lắm tới một giải pháp cho các vấn đề kinh tế của Đức.[27] Hoa Kỳ kết luận rằng không thể chờ đợi lâu hơn nữa cho một giải pháp.[27] Trong một bài phát biểu ngày 5 tháng 6 năm 1947 speech,[28] phù hợp với Học thuyết Truman, Marshall đã thông báo một chương trình toàn diện về sự giúp đỡ của Hoa Kỳ cho mọi quốc gia châu Âu muốn gia nhập, kể cả LIên xô và những nước Đông Âu, cái gọi là Kế hoạch Marshall.[27]

Lo ngại sự thâm nhập về chính trị, văn hoá và kinh tế của Mỹ, Stalin cuối cùng cấm các quốc gia Khối Đông Âu của khối Cominform mới được thành lập chấp nhận sự trợ giúp từ Kế hoạch Marshall.[27] Tại Tiệp Khắc, điều này đòi hỏi một cuộc Đảo chính Tiệp Khắc năm 1948 được Liên xô hỗ trợ,[29] sự tàn bạo của nó đã gây sốc cho các cường quốc phương Tây hơn bất kỳ một sự kiện nào và được đặt trong tình thế một sự sợ hãi chiến tranh có thể bùng phát và quét đi mọi di tích của sự chống đối Kế hoạch Marshall trong Hạ viện Hoa Kỳ.[30]

Nội chiến Hy Lạp và Học thuyết Truman

Cả Đông và Tây đều coi Hy Lạp là một quốc gia nằm trong vùng ảnh hưởng của Anh. Stalin đã tôn trọng thoả thuận của ông với Winston Churchill và không can thiệp, nhưng Nam Tư và Albania đã bất chấp lời khuyên của Liên xô và gửi hỗ trợ tới các lực lượng du kích của Đảng Cộng sản Hy Lạp, ELAS (Quân đội Giải phóng Nhân dân Quốc gia) trong cuộc Nội chiến Hy Lạp. Anh Quốc viện trợ cho các lực lượng bảo hoàng Hy Lạp và các lãnh đạo ELAS, không nhận thấy rằng sẽ không nhận được sự viện trợ từ Liên xô và đã tẩy chay cuộc bầu cử, và rơi vào tình thế bất lợi. Tuy nhiên, tới năm, 1947, tình trạng gần phá sản của chính phủ Anh khiến họ không còn sức duy trì những cam kết giúp đỡ lớn cho nước ngoài nữa. Ngoài việc trao độc lập cho Ấn Độ và giao lại Palestinia Uỷ trị cho Liên hiệp quốc, chính phủ Anh quyết định rút khỏi cả Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ ở gần đó. Điều này khiến hai quốc gia trên, đặc biệt là Hy Lạp, nằm trên miệng vực của một cuộc cách mạng do cộng sản lãnh đạo.

Nhận thấy rằng sự giúp đỡ của Anh cho Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ sẽ chấm dứt trong chưa tới sáu tuần, chính phủ Hoa Kỳ, vốn đã ở tình trạng thù địch và nghi ngờ với những ý định của Liên xô, quyết định rằng cần phải hành động. Với việc Hạ viện hoàn toàn nằm trong tay Đảng Cộng hoà, và với tình cảm biệt lập mạnh trong nhân dân Mỹ, Truman đã chấp nhận một sự tiếp cận ý thức. Trong một cuộc gặp với các lãnh đạo hạ viện, lý lẽ về "những quả táo trong một cái giỏ bị ảnh hưởng bởi một quả thối" đã được sử dụng để thuyết phục họ trong việc ủng hộ Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ. Nó đã trở thành "học thuyết domino." Buổi sáng ngày 12 tháng 3 năm 1947, Tổng thống Harry S. Truman xuất hiện trước Hạ viện yêu cầu $400 triệu viện trợ cho Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ. Kêu gọi Hạ viện thông qua việc "hỗ trợ những người tự do những người đang chống lại nỗ lực nô dịch bởi các cộng đồng thiểu số vũ trang hay bởi áp lực từ bên ngoài," hay nói ngắn gọn là một chính sách "ngăn chặn," Truman trình bày rõ về một cuộc đấu tranh ý thức hệ sẽ được gọi là "Học thuyết Truman." Dù dựa trên một phân tích quá đơn giản của sự xung đột nội bộ tại Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ, nó đã trở thành ảnh hưởng có tính quyết định duy nhất trong chính sách của Hoa Kỳ ít nhất cho tới cuộc Chiến tranh Việt Nam.

Bài diễn văn của Truman đã có hiệu ứng khủng khiếp. Những tìm cảm chống cộng vừa mới bắt đầu nảy nở ở Mỹ đã có một cơ hội để bùng nổ, và một quốc hội im lặng đã bỏ phiếu với đa số tuyệt đối thông qua việc viện trợ. Hoa Kỳ sẽ không rút về Tây bán cầu như họ từng làm sau Thế chiến I. Từ đps về sau, Mỹ tham gia tích cực vào bất kỳ một cuộc đấu tranh nào với các mối đe doạ của chủ nghĩa cộng sản ở bất cứ đâu trên thế giới dưới các lý tưởng bề ngoài là "dân chủ", "tự do" và "nhân quyền." Hoa Kỳ đã đề cao vai trò của họ như là lãnh đạo của "thế giới tự do." Trong khi đó, Liên xô quảng cáo vai trò là lãnh đạo của phe "tiến bộ" và "chống đế quốc".

Tranh cãi Học thuyết Quân sự Hoa Kỳ

Sau Thế chiến II, các tướng lĩnh trong lực lượng Không quân Mỹ mới được thành lập đề xuất một học thuyết: cho rằng ném bom chiến lược, đặc biệt với các loại vũ khí hạt nhân, là yếu tố quyết định duy nhất cần thiết để giành thắng lợi trong các cuộc chiến tranh tương lai, và vì thế là phương tiện duy nhất cần thiết để ngăn chặn một đối thủ tung ra một cuộc tấn công bất ngờ kiểu vụ Trân Châu cảng hay một cuộc chiến tranh chống lại Hoa Kỳ. Để thực hiện học thuyết này, mà Không quân và những người ủng hộ họ coi là ưu tiên cao nhất của quốc gia, Không quân đề xuất rằng họ cần được Hạ viện cấp vốn để xây dựng một phi đội máy bay ném bom hạng nặng chiến lược tầm xa có căn cứ tại Hoa Kỳ. Các tướng lĩnh không quân cho rằng dự án này sẽ nhận được các khoản vốn lớn, khởi đầu với chiếc máy bay ném bom B-36 Peacemaker.[31]

Các đô đốc của Hải quân không đồng ý. Chỉ ra vai trò thống trị của tàu sân bay trong Mặt trận Thái Bình Dương, họ yêu cầu Hạ viện Hoa Kỳ cung cấp một khoản vốn lớn cho một hạm đội "các siêu tàu sân bay" lớn và họ ủng hộ nhóm chiến đấu, bắt đầu với USS United States (CVA-58). Giới lãnh đạo Hải quân tin rằng không thể giành thắng lợi trong các cuộc chiến chỉ bằng việc ném bom chiến lược, dù có hay không sự sử dụng vũ khí hạt nhân. Hải quân cũng cho rằng để quyết định, trước sự bắt đầu của bất kỳ cuộc xung đột nào trong tương lai, để sử dụng trên diện rộng vũ khí hạt nhân—tấn công các trung tâm dân số lớn trên đất đai kẻ thù—là phi đạo đức.

Quan hệ Phát xít-Liên xô và Những điều giả mạo của Lịch sử

Các quan hệ tiếp tục xấu đi khi, vào tháng 1 năm 1948, Bộ ngoại giao Hoa Kỳ xuất bản một tuyển tập các tài liệu có tiêu đề Quan hệ Phát xít-Liên xô, 1939–1941: Các tài liệu từ Thư khố của Văn phòng Đối ngoại Đức, có chứa những tài liệu được thu từ Văn phòng Đối ngoại của Phát xít Đức[32][33] cho thấy những cuộc thảo luận của Liên xô với Đức về Hiệp ước Molotov-Ribbentrop, gồm cả nghị định thư mật của nó về việc phân chia Đông Âu,[34][35] the1939 German-Soviet Commercial Agreement,[34][36]các cuộc đàm phán về khả năng Liên xô trở thành thành viên thứ tư của Phe trục.[37]

Đối phó lại, một tháng sau, Liên bang Xô viết xuất bản Falsifiers of History, một cuốn sách được Stalin biên tập và viết lại một phần tấn công phương Tây.[32][38] Cuốn sách không trực tiếp trả lời các tài liệu được xuất bản trong cuốn Quan hệ Đức-Xô[39] mà thay vào đó, tập trung trên trách nhiệm của phương Tây dẫn tới sự bùng phát chiến tranh năm 1939.[34] Nó cho rằng "các cường quốc phương Tây" đã giúp Phát xít tái vũ trang và trở nên hiếu chiến, gồm cả việc các nhà băng và nhà công nghiệp Mỹ cung cấp tài chính cho sự phát triển các ngành công nghiệp vũ khí của Đức, trong khi công khai khuyến khích Hitler mở rộng về phía Đông.[32][34] Cuốn sách cũng có tuyên bố cho rằng, trong thời gian đàm phán Hiệp ước, Stalin đã từ chối đề nghị của Hitler về việc chia sẻ thế giới, mà không đề cập tới việc Liên xô đề nghị gia nhập Phe trục.[40] Các nghiên cứu lịch sử, các lời tường thuật chính thức, các hồi ký và văn bản được xuất bản tại Liên xô đã sử dụng các miêu tả các sự kiện như vậy cho tới khi Liên xô bị giải tán.[40]

Phong toả Berlin

Người dân Berlin đang theo dõi một chiếc C-54 hạ cánh tại Sân bay Tempelhof (1948)
Bài chi tiết: Phong toả Berlin

Sau Kế hoạch Marshall, việc đưa ra một đồng tiền tệ mới ở Tây Đức để thay thế đồng Reichsmark đã mất giá trị và những thất bại bầu cử của các đảng cộng sản năm 1946, tháng 6 năm 1948, Liên xô cắt mọi đường tiếp cận đường bộ tới Berlin. Vào ngày diễn ra cuộc Phong toả Berlin, một đại diện Liên xô đã nói với các cường quốc chiếm đóng khác "Chúng tôi đang cảnh báo cả các vị và người dân Berlin rằng chúng tôi sẽ áp dụng các biện pháp cấm vận kinh tế và hành chính sẽ dẫn tới việc Berlin chỉ sử dụng đồng tiền tệ như tại vùng chiếm đóng của Liên xô." [41]

Sau đó, các đường giao thông đường bộ và đường thuỷ trở nên rất khó khăn, giao thông đường sắt và đường sông bị ngăn chặn và người Liên xô ban đầu chỉ ngăn việc cung cấp thực phẩm cho dân chúng tại vùng Berlin không thuộc quyền chiếm đóng của họ.[42] Vì Berlin nằm bên trong vùng chiếm đóng của Liên xô tại Đức và các cường quốc chiếm đóng khác trước đó phải dựa vào Liên xô để tiếp cận Berlin, cách duy nhất để tiếp tế cho thành phố là qua các hành lang đường không hạn chế.[43]

Tới tháng 2 năm 1948, vì những cắt giảm quân sự hàng loạt thời hậu chiến, toàn bộ quân đội Hoa Kỳ đã giảm xuống còn 552.000 người.[44] Các lực lượng quân sự trong vùng Berlin không thuộc Liên xô chỉ có 8,973 lính Mỹ, 7,606 lính Anh và 6,100 lính Pháp.[45] Các lực lượng Liên xô tại vùng chiếm đóng của họ vây quanh Berlin có tổng số nửa triệu người.[46] Hai trung đoàn Mỹ tại Berlin sẽ ít có khả năng kháng cự trước một cuộc tấn công của Liên xô.[47] Tin rằng Anh, Pháp và Hoa Kỳ không có lựa chọn nào khác ngoài việc chấp nhận, Ban chỉ huy Quân đội Liên xô ở Đức ăn mừng sự khởi đầu của cuộc phong toả.[48] Sau đó, một chiến dịch lớn cung cấp thực phẩm, nước uồng và các loại hàng hoá khác bằng đường không đã được Hoa Kỳ, Anh Quốc và Pháp cùng các nước khác thực hiện.[49] Người Liên xô chế nhạo "những nỗ lực vô ích của người Mỹ để giữ thể diện và duy trì vị thế không thể trụ lại của họ tại Berlin."[50] Thành công của chiến dịch không vận cuối cùng đã buộc người Liên xô phải dỡ bỏ sự phong toả của họ vào tháng 5 năm 1949.

Chia rẽ Tito-Stalin

Xem thêm thông tin: Chia rẽ Tito-Stalin

Sau những sự bất đồng giữa lãnh đạo Nam Tư Josip Broz Tito và Liên xô về Hy Lạp và Cộng hoà Nhân dân Albania, một sự chia rẽ Tito-Stalin diễn ra, tiếp đó là việc Nam Tư bị trục xuất khỏi Cominform tháng 6 năm 1948 và một giai đoạn nổi dậy ngắn không thành công của Xô viết tại Belgrade.[51] Sự chia rẽ đã tạo ra hai lực lượng cộng sản ở châu Âu.[51] Một chiến dịch mạnh mẽ chống lại "chủ nghĩa Tito" ngay lập tức được phát động trong Khối Đông Âu, miêu tả các điệp viên của cả phương Tây và Tito ở mọi nơi liên quan tới hành động lật đổ.[51] Việc này dẫn tới sự hành quyết nhiều lãnh đạo cao cấp của đảng, gồm cả những người ở Đông Đức.[52]

NATO

Bản đồ Khối Đông Âu, các nước khối phương Tây và các quốc gia châu Âu khác thời Chiến tranh Lạnh.

Hoa Kỳ cùng Anh Quốc, Pháp, Canada, Đan Mạch, Bồ Đào Nha, Na Uy, Bỉ, Iceland, Luxembourg, Italia, và Hà Lan thành lập Khối Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) năm 1949, liên minh "cam kết" đầu tiên của Hoa Kỳ tại châu Âu trong 170 năm. Tây Đức, Tây Ban Nha, Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ sau này cũng gia nhập liên minh. Các lãnh đạo Đông Âu đáp trả bằng cách liên kết các nền kinh tế của mình trong khối Comecon, phiên bản Kế hoạch Marshall của họ; cho nổ quả bom hạt nhân đầu tiên của Liên xô năm 1949; ký kết một liên minh với Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa vào tháng 2 năm 1950; và thành lập Khối hiệp ước Warsaw, đối thủ phương Đông của NATO, năm 1955. Liên xô, Nam Tư, Albania, Tiệp Khắc, Hungary, Đông Đức, Bulgaria, Romania, và Ba Lan sáng lập liên minh quân sự này.

NSC-68

Các quan chức Mỹ nhanh chóng nâng cấp và mở rộng "chính sách ngăn chặn." Trong một tài liệu mật năm 1950, NSC-68, họ đề nghị tăng cường các hệ thống liên minh của mình, tăng gấp bốn lần chi tiêu quốc phòng, và tiến hành một chiến dịch tuyên truyền công phu để thuyết phục dân chúng Hoa Kỳ trong cuộc chiến tranh lạnh đầy phí tổn này. Truman ra lệnh phát triển một quả bom hydro. Đầu năm 1950, Hoa Kỳ tiến hành những nỗ lực đầu tiên nhằm chống lại các lực lượng cộng sản ở Việt Nam; đặt kế hoạch thành lập một quân đội cho Tây Đức, và chuẩn bị những đề xuất cho một hiệp ước hoà bình với Nhật Bản sẽ đảm bảo sự có mặt lâu dài của các căn cứ quân sự Mỹ tại đây.